Bài viết này chủ yếu về tiếng Triều Tiên dạng nói. Xem
Bài viết này chủ yếu về tiếng Triều Tiên dạng nói. Xem
Tiếng Triều Tiên sử dụng ở Triều Tiên và Hàn Quốc thể hiện những khác biệt trong phát âm, chính tả, ngữ pháp và từ vựng.
Cách phát âm ở các bảng dưới được thể hiện dưới dạng Revised Romanization, McCune–Reischauer và Hangul.
Một số từ được viết giống nhau nhưng phát âm khác nhau:
Một số từ được viết khác nhau giữa miền Bắc và miền Nam, nhưng phát âm thì giống nhau:
Ngoài ra, các từ Hán-Triều có kết thúc là ㄷ hoặc ㅅ (đều phát âm là /t/ khi ở vị trí phụ âm cuối) thì tiếng tiêu chuẩn miền Nam đổi thành ㄹ /r/.
Một số phần văn phạm cũng khác biệt:
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về
Tiền xu và tiền giấy hiện lưu hành
Won (원) (Ký hiệu: ₩; code: KRW) là đơn vị tiền tệ của Đại Hàn Dân Quốc. Một Won được chia thành 100 jeon. Jeon không còn được dùng để giao dịch hằng ngày nữa và chỉ xuất hiện trong tỷ giá hối đoái. Won được ban hành bởi Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc, có trụ sở tại thành phố thủ đô Seoul. Tiền tệ chính thức của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên được ban hành bởi Ngân hàng Trung ương của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên có trụ sở tại thủ đô Pyongyang, được gọi là Won Triều Tiên.
"Won" cũ là từ có cùng gốc với Yuan Trung Quốc và Yên Nhật. Nó có nguồn gốc từ Hanja 圓 (Hangul: 원, Hán-Việt: Viên), nó là một từ cùng gốc với ký tự Trung Quốc 圓 (yuan) có nghĩa là "hình tròn." Một Won được chia thành 100 "jeon" (Tiếng Hàn: 전; Hanja: 錢; Romaja: jeon; McCune–Reischauer: chŏn, Hán-Việt: tiền), nó là một từ cùng gốc với ký tự Trung Quốc 錢 (qian) có nghĩa là "tiền tệ" và cũng được sử dụng như một đơn vị tiền tệ cổ.
Trong suốt thời kỳ Triều Tiên thuộc Nhật, won được thay thế bằng yên, tạo thành Yên Hàn Quốc.
Vào năm 1945 sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Triều Tiên bị chia cắt, kết quả là chia thành hai loại tiền tệ, đều gọi là won cho cả Nam và Bắc. Cả Won Nam và Won Bắc thay thế tiền yên. Won Hàn Quốc đầu tiên được chia thành 100 joen.
Won Hàn Quốc ban đầu được ấn định với Đô la Mỹ với tỷ giá 15Won = 1 Đô la. Một loạt đợt mất giá tiếp theo, những đợt cuối cùng là do Chiến tranh Triều Tiên. Các đợt như sau:
Vào năm 1946, Ngân hàng Joseon giới thiệu tiền giấy 10 và 100 won. Tiếp theo đó là vào năm 1949, tiền giấy 5 và 1000 won.
Một ngân hàng trung ương mới, Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc, được thành lập vào 12 tháng 6 năm 1950,[2] và giả định các nhiệm vụ của Ngân hàng Joseon. Tiền giấy được giới thiệu (1949) mệnh giá 5, 10 và 50 Jeon, 100 Won và 1000 Won. Tiền giấy 500 Won được giới thiệu vào 1952. Vào năm 1953, một loạt tiền giấy được ban hành, đồng thời tiền Won Hàn Quốc đầu tiên được thay thế bởi tiền Hwan vào 15 tháng 2 năm 1953. Từ 9 tháng 6 năm 1962, Won là đơn vị tiền tệ của Đại Hàn Dân Quốc được sử dụng chính thức.
Năm 2016, ngân hàng Trung ương Hàn Quốc thông báo ngừng lưu hành tiền giấy dưới 1000 Won
Các mệnh giá đang áp dụng trong lưu thông:
Tư liệu liên quan tới Tiền Hàn Quốc tại Wikimedia Commons
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hwan là đơn vị tiền tệ của Hàn Quốc giữa ngày 15 tháng 2 năm 1953 và ngày 9 tháng 6 năm 1962.
Do sự mất giá của đồng won Hàn Quốc đầu tiên (từ 15 won sang đô la Mỹ năm 1945 đến 6000 won so với đồng đô la vào năm 1953), hwan được giới thiệu vào năm 1953 với tỷ lệ 1 hwan = 100 won. Hwan được chia nhỏ thành 100 jeon nhưng mệnh giá thấp nhất được phát hành là 1 hwan. Hwan cũng bị lạm phát và một loạt các sự mất giá xảy ra.[1]
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về