4 Giai Đoạn Phát Triển Chính Của Asean

4 Giai Đoạn Phát Triển Chính Của Asean

Tại Chương trình giáo dục phổ thông môn Lịch sử ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT có quy định thời lượng dành cho các chuyên đề học tập là 35 tiết. Dự kiến số tiết của các chuyên đề học tập (bao gồm cả kiểm tra, đánh giá) như sau:

Tại Chương trình giáo dục phổ thông môn Lịch sử ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT có quy định thời lượng dành cho các chuyên đề học tập là 35 tiết. Dự kiến số tiết của các chuyên đề học tập (bao gồm cả kiểm tra, đánh giá) như sau:

Tâm lý học ứng dụng và các xu hướng tương lai

Tâm lý học ứng dụng hiện nay đang phát triển mạnh mẽ, với việc áp dụng các lý thuyết và nghiên cứu tâm lý vào các lĩnh vực như giáo dục, sức khỏe, quản lý và công việc. Các công ty và tổ chức ngày càng quan tâm đến việc ứng dụng các nguyên lý Tâm lý học để cải thiện hiệu suất làm việc, động lực và sự hài lòng của nhân viên.

Nhìn về tương lai, Tâm lý học sẽ tiếp tục phát triển với việc áp dụng công nghệ mới, như trí tuệ nhân tạo và phân tích dữ liệu lớn, để nghiên cứu các vấn đề tâm lý phức tạp hơn. Sự kết hợp giữa các phương pháp nghiên cứu truyền thống và công nghệ hiện đại sẽ mở ra những cơ hội mới cho việc hiểu và ứng dụng các lý thuyết tâm lý.

Như vậy, tìm hiểu lịch sử Tâm lý học giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự phát triển và tiến hóa của lĩnh vực này qua các thời kỳ khác nhau. Từ những khái niệm triết học cổ đại đến những lý thuyết khoa học hiện đại, mỗi giai đoạn trong lịch sử của ngành đã góp phần quan trọng vào việc hình thành nên một lĩnh vực nghiên cứu phong phú và đa dạng. Việc nắm bắt các giai đoạn phát triển chính trong lịch sử của Tâm lý học không chỉ giúp chúng ta đánh giá các lý thuyết hiện tại mà còn mở ra hướng nghiên cứu và ứng dụng mới trong tương lai.

Chương trình học ngành Tâm lý tại VinUni được thiết kế với sự liên kết với các đại học danh tiếng như Cornell và Pennsylvania

Lựa chọn chương trình Cử nhân Tâm lý học tại Viện Khoa học và Giáo dục Khai phóng, trường Đại học VinUni là một quyết định sáng suốt cho những ai mong muốn phát triển toàn diện trong ngành này. Chương trình được thiết kế với sự liên kết với các đại học danh tiếng như Cornell và Pennsylvania, đảm bảo cung cấp cho sinh viên một nền tảng vững chắc về lý thuyết và ứng dụng Tâm lý học.

Tại VinUni, sinh viên không chỉ được trang bị kiến thức chuyên môn sâu rộng mà còn có cơ hội phát triển các kỹ năng liên ngành, công nghệ số và tư duy phản biện, giúp họ đáp ứng nhu cầu và thách thức trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0.

Chương trình còn bao gồm thực tập hoặc dự án cuối khóa, giúp sinh viên tích lũy kinh nghiệm thực tiễn và xây dựng mạng lưới chuyên nghiệp, từ đó củng cố sự phát triển nghề nghiệp và khả năng lãnh đạo. Với cam kết đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, VinUni là nơi lý tưởng để bạn khởi đầu sự nghiệp trong lĩnh vực Tâm lý học.

Tâm lý học xã hội và tâm lý học lâm sàng

Trong những năm 1960 và 1970, Tâm lý học xã hội đã phát triển mạnh mẽ, tập trung vào cách mà các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến hành vi và suy nghĩ của cá nhân. Các nghiên cứu nổi bật trong lĩnh vực này bao gồm nghiên cứu của Solomon Asch về ảnh hưởng của nhóm và nghiên cứu của Stanley Milgram về sự tuân thủ.

Tâm lý học lâm sàng cũng trở thành một lĩnh vực quan trọng trong thế kỷ 20, với sự phát triển của các phương pháp trị liệu như liệu pháp hành vi, liệu pháp nhận thức và liệu pháp tâm lý phân tích. Những nhà Tâm lý học như Sigmund Freud, Carl Rogers và Aaron Beck đã đóng góp nhiều vào việc hình thành các lý thuyết và phương pháp trị liệu hiện đại.

Giai đoạn hiện đại của lịch sử Tâm lý học phản ánh sự đổi mới và mở rộng trong việc hiểu và ứng dụng các khái niệm tâm lý

Giai đoạn khoa học: Sự hình thành của Tâm lý học như một khoa học độc lập

Giai đoạn khoa học trong lịch sử Tâm lý học đánh dấu sự chuyển mình từ việc tiếp cận Tâm lý học dưới góc độ triết học sang việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học thực nghiệm.

Các giai đoạn phát triển của ASEAN từ năm 1967 đến nay?

Từ năm 1967 đến nay, có thể nói các giai đoạn phát triển của ASEAN bao gồm 5 giai đoạn. Cụ thể, các giai đoạn phát triển của ASEAN từ năm 1967 đến nay như sau:

1. Giai đoạn thành lập và thiết lập mục tiêu (1967 - 1975)

- ASEAN được thành lập vào ngày 8 tháng 8 năm 1967 tại Bangkok, Thái Lan với 5 thành viên sáng lập là: Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, và Thái Lan.

- Các quốc gia này đã cùng ký Tuyên bố Bangkok, xác định mục tiêu của ASEAN là thúc đẩy hợp tác kinh tế, xã hội và văn hóa, đồng thời đảm bảo hòa bình và ổn định trong khu vực.

2. Giai đoạn mở rộng thành viên và tăng cường hợp tác (1976 - 1984)

- Năm 1976, ASEAN tổ chức Hội nghị Cấp cao ASEAN lần đầu tiên tại Bali, Indonesia. Tại đây, các quốc gia thành viên ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác (TAC), cam kết giải quyết các tranh chấp trong khu vực một cách hòa bình.

- Năm 1984, Brunei gia nhập ASEAN vào ngày 7 tháng 1, trở thành thành viên thứ 6 và đánh dấu lần đầu tiên ASEAN mở rộng ngoài 5 quốc gia sáng lập.

3. Giai đoạn hợp tác toàn diện và thúc đẩy khu vực hòa bình (1985 - 1998)

- ASEAN đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hòa bình khu vực, đặc biệt là qua việc hỗ trợ đối thoại giải quyết xung đột tại Campuchia vào cuối thập niên 1980.

- Trong giai đoạn này, ASEAN tiếp tục mở rộng thành viên:

+ Việt Nam gia nhập vào ngày 28 tháng 7 năm 1995, trở thành thành viên thứ 7.

+ Lào và Myanmar gia nhập vào ngày 23 tháng 7 năm 1997, nâng tổng số thành viên lên 9.

+ Campuchia gia nhập vào ngày 30 tháng 4 năm 1999, hoàn tất quá trình kết nạp các quốc gia Đông Nam Á và đưa tổng số thành viên ASEAN lên 10.

4. Giai đoạn xây dựng Cộng đồng ASEAN (1999 - 2015)

- Năm 2003, ASEAN thông qua Tuyên bố Hòa hợp Bali II, hướng đến việc xây dựng một Cộng đồng ASEAN vào năm 2020, sau đó đẩy sớm lên năm 2015. Cộng đồng ASEAN gồm ba trụ cột chính: Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN.

- Năm 2007, ASEAN thông qua Hiến chương ASEAN, đánh dấu bước phát triển mới khi ASEAN trở thành một tổ chức liên chính phủ, có khung pháp lý và thể chế rõ ràng.

5. Giai đoạn củng cố và phát triển bền vững (2015 - nay)

- Ngày 31 tháng 12 năm 2015, Cộng đồng ASEAN chính thức ra đời, đánh dấu sự gắn kết chặt chẽ giữa các nước thành viên và nâng cao hợp tác khu vực.

- Từ năm 2016 đến nay, ASEAN tập trung vào các mục tiêu phát triển bền vững và tăng cường hợp tác quốc tế với các đối tác lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, và Hoa Kỳ. Các thỏa thuận như Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) đã giúp ASEAN mở rộng hợp tác kinh tế và củng cố vị thế quốc tế.

Các giai đoạn phát triển của ASEAN từ năm 1967 đến nay? Các nội dung được học về ASEAN môn Lịch sử lớp 12? (Hình từ Internet)

Các giai đoạn phát triển nông nghiệp và chính sách nông nghiệp của Hàn Quốc

Sự phát triển của nền nông nghiệp Hàn Quốc kể từ khi thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc (1948) đến nay có thể được phân định thành 3 giai đoạn lớn với những đặc trưng chủ yếu là: Cải tạo nông nghiệp và xây dựng nền tảng cơ sở của sản xuất nông nghiệp (1948 - 1970); Xây dựng nông thôn mới (1970 - 1995); và Hội nhập quốc tế về nông nghiệp (1995 đến nay).

Hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển nông thôn là một trong những vấn đề đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới, không chỉ đối với các nước đang phát triển với nông nghiệp là ngành chủ đạo của nền kinh tế quốc dân, mà kể cả các nước đã phát triển với các ngành công nghệ và dịch vụ giữ vai trò chủ đạo.

Từ một nước có nền kinh tế nông nghiệp là chủ đạo, với hơn 70% GDP do nông nghiệp đóng góp và hơn 70% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, và với GDP bình quân đầu người hơn 70 USD vào đầu những năm 1960, Hàn Quốc đã thực hiện quá trình công nghiệp hoá đất nước theo định hướng xuất khẩu và đã trở thành một nước công nghiệp phát triển đứng hàng thứ 10 trên thế giới. Trong quá trình đó, nền nông nghiệp của Hàn Quốc đã trải qua những giai đoạn thăng trầm và phải đương đầu với khá nhiều vấn đề trong quá trình phát triển để có thể trở thành một nền nông nghiệp hiện đại.

Bài viết này tập trung phân tích các giai đoạn chủ yếu trên con đường phát triển hiện đại của nông nghiệp Hàn Quốc và các chính sách nông nghiệp chủ yếu mà chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện qua các giai đoạn đó.

1. Tổng quan về các giai đoạn phát triển chủ yếu của nông nghiệp Hàn Quốc

Sự phát triển của nền nông nghiệp Hàn Quốc kể từ khi thành lập nước Đại hàn dân quốc (1948) đến nay có thể được phân định thành 3 giai đoạn lớn: 1948 - 1970; 1970 - 1995; và từ 1995 đến nay.

Những năm 1950, 1960, bức tranh nông nghiệp Hàn Quốc khá ảm đạm với những cánh đồng khô cằn, hiệu quả kinh tế thấp; tư duy canh tác của người nông dân manh mún, lạc hậu. Nguyên nhân của tình trạng trì trệ này là do sản xuất nông nghiệp dựa trên kinh nghiệm là chính, năng suất và thu nhập thấp, nông đân không có khả năng tái đầu tư nên bị rơi vào cái vòng luẩn quẩn đói nghèo. Trước tình trạng này, Chính phủ Hàn Quốc đã quyết định phá vỡ sự bế tắc bằng cách thực hiện biện pháp “hai mũi giáp công đồng bộ”: một là, đưa kỹ thuật sản xuất mới (giống mới, phân bón và nông dược, cung cấp tín dụng đầy đủ và xác định giá nông sản nâng đỡ cho nhà nông); hai là, thay đổi cơ chế chính sách nông nghiệp (cải cách ruộng đất để mọi nông dân đều có đất canh tác, đồng thời ban hành Luật Hợp tác xã và xây dựng Hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) đa mục tiêu khuyến khích nông dân tham gia).

HTXNN đa mục tiêu của Hàn Quốc có nhiệm vụ hướng dẫn và đào tạo kỹ năng sản xuất cho nông dân; cung cấp các phương tiện cần thiết cho an sinh xã hội; làm dịch vụ tiêu thụ sản phẩm và cung cấp vật tư nông nghiệp cho xã viên từ đồng ruộng đến chợ hàng hoá (bao gồm sản xuất, chế biến và bán ra thị trường); dịch vụ ngân hàng và bảo hiểm (bao gồm kinh doanh tài chính nông nghiệp, tín dụng và tiết kiệm của các HTXNN thành viên); dịch vụ về chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm, từ sản xuất, chế biến và tiêu thụ. Điều này đã “vực” nền nông nghiệp Hàn Quốc từ yếu ớt trở nên ổn định. Nhờ đó, giá trị sản lượng nông nghiệp tăng gấp đôi so với 15 năm trước.

Cụ thể là từ năm 1962 đến 1971, Chính phủ Hàn Quốc đã thực thi kế hoạch 5 năm về phát triển kinh tế lần thứ nhất và thứ hai, trợ giúp các ngành nghề trọng điểm và mở rộng xuất khẩu. Nhưng trong thời kỳ này, sự phát triển công nghiệp và nông nghiệp đã bị mất cân đối nghiêm trọng. Để giải quyết vấn đề này, tháng 4 năm 1970 Chính phủ Hàn Quốc đã phát động “Phong trào làng mới". Cách thức hoạt động chủ yếu của phong trào này là Chính phủ là người chủ đạo, cung cấp nguyên vật liệu và máy móc thiết bị; các Hội Nông dân địa phương tổ chức cho nông dân thực thi cụ thể.

Chương trình xây dựng nông thôn mới (hay phong trào làng mới) ở Hàn Quốc được khởi xướng vào đầu những năm 1970. Sau hơn 20 năm nỗ lực thực hiện chương trình này, Hàn Quốc đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc hiện đại hoá nông nghiệp và cải tạo nông thôn. Chương trình xây dựng nông thôn mới ở Hàn Quốc trong giai đoạn này được chia thành 5 giai đoạn nhỏ hơn như sau:

(1) Giai đoạn cải thiện điểu kiện cư trú của nông dân (1971 - 1973):Trọng điểm của giai đoạn này là cải thiện điều kiện ăn ở của người dân. Bắt đầu từ mùa Đông năm 1970, Chính phủ Hàn Quốc đã hỗ trợ nông dân các vật tư xây dựng như xi măng, sắt thép... Bộ Nội vụ Hàn Quốc đã trực tiếp lãnh đạo và phụ trách tổ chức thực thi chương trình xây dựng nông thôn mới; thành lập Viện nghiên cứu trung ương về chương trình này; đồng thời đào tạo hàng loạt các chỉ đạo viên có năng lực để phục vụ cho chương trình.

(2) Giai đoạn nâng cao chất lượng cuộc sống của nông dân (1974 - 1976): Ở giai đoạn này, phong trào làng mới bắt đầu mở rộng theo hướng đô thị hóa. Tiếp tục tập trung xây mới và sửa chữa các công trình công cộng như nhà họp, công trình nước máy, khuyến khích xây mới nhà ở và phát triển kinh doanh đa dạng, tăng cường giáo dục nông thôn mới nhờ lực lượng chỉ đạo viên, cán bộ chính phủ, người phụ trách đoàn thể xã hội... Đồng thời, Chính phủ cũng cung cấp các khoản tín dụng và nhiều điều kiện ưu đãi khác cho những vùng thực hiện phong trào làng mới có hiệu quả; động viên giáo viên, nhân viên nghiên cứu về nông thôn dạy học và phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật, nâng cao chất lượng cuộc sống của nông dân. Trong giai đoạn này, sản xuất nông nghiệp của Hàn Quốc đã liên tục có những vụ mùa bội thu, thu nhập của đông đảo nông dân được cải thiện đáng kể.

(3) Giai đoạn đi sâu vào sản nghiệp nông thôn, giảm nhẹ tác động của Chỉnh phủ (1977-1980): Trong giai đoạn này, ngành nuôi trồng, ngành gia công nông sản phẩm và nông nghiệp đặc sản phát triển nhanh chóng. Chính phủ tiếp tục cung cấp nguyên liệu xây dựng để mở ra các khu khai thác công nông và các công trình văn hóa nông thôn; ngành bảo hiểm nông thôn và xây dựng văn hóa nông thôn cũng phát triển khá nhanh.

(4) Giai đoạn xây dựng theo hình thái nông dân tự phát làm chủ và được xác nhận (1981 - 1988):Lúc này, Chính phủ mạnh tay điều chỉnh các chính sách và biện pháp thực hiện phong trào làng mới, người nông dân, dưới sự chỉ đạo của chính phủ, đã tự chủ triển khai xây dựng hiện đại hóa nông thôn. Trong giai đoạn này, trọng điểm công tác của Chính phủ là xây dựng và hoàn thiện tổ chức của phong trào làng mới trên toàn quốc, định ra kế hoạch phát triển và làm tốt việc cung cấp tài chính, vật lực và hỗ trợ về kỹ thuật để phát triển nông nghiệp và nông thôn, phối hợp tốt các công tác: đào tạo, thông tin, tuyên truyền...

(5) Từ đầu những năm 1990 đến 1995,thông qua phong trào làng mới, Hàn Quốc đã phổ cập được hạ tầng cơ sở ở nông thôn, thu hẹp một phần khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, nâng cao trình độ tổ chức của nông dân, chấn hưng tinh thần quốc dân, cuộc sống của người nông dân cũng đạt đến mức khá giả, nông thôn đã bắt kịp tiến trình hiện đại hóa của cả nước, đồng thời đưa thu nhập quốc dân của Hàn Quốc đạt đến tiêu chí của một quốc gia phát triển.

1. 3. Giai đoạn 3 (1995 đến nay)

Khi Hàn Quốc gia nhập WTO vào năm 1995, nông dân Hàn Quốc đứng trước một thách thức mới, đó là các cam kết cắt bỏ mọi khoản trợ cấp cho nông dân. Để thích ứng với những cam kết WTO, Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành chiến lược nông nghiệp mới, trong đó chú trọng đổi mới khả năng cạnh tranh của nông nghiệp bằng cách huấn luyện nông dân, hiện đại hoá hệ thống marketing, áp dụng công nghệ thông tin; ổn định an sinh nông thôn thông qua đầu tư cho giáo dục, y tế và đặc biệt là hưu trí của nông dân xã viên. Ngoài ra, Nhà nước còn cải tiến cơ chế chính sách, đặc biệt là chuyển hướng mục tiêu hoạt động của HTXNN. Theo đó, thay vì hoạt động dàn trải trước đây, HTXNN tập trung vào những sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ có lợi thế cạnh tranh cũng như khả năng thành công cao. Thủ tục tài chính được cải cách với hình thức thanh toán trực tiếp thay vì qua trung gian.

Từ năm 1997 đến năm 2003, Chính phủ Hàn Quốc đã dành 48 tỷ USD thực hiện chiến lược trên và dự trù khoảng 110 tỷ USD cho giai đoạn 2004 -2013 để tiếp tục cải tiến thuỷ lợi, cải cách ruộng đất, hiện đại hoá phương tiện marketing, nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ ứng dụng vào sản xuất, cải tiến chất lượng cuộc sống của bà con nông dân...

Giá trị sản lượng nông nghiệp của Hàn Quốc đã tăng gấp đôi so với 15 năm trước. Năm 2005, mặc dù tăng trưởng nông nghiệp chậm lại nhưng Hàn Quốc đã đạt được mục tiêu hàng đầu là tự cung tự cấp về gạo - nguồn lương thực chủ yếu của đất nước - với sản lượng 4,8 triệu tấn.

Hàn Quốc đã tập trung nỗ lực phát triển nông nghiệp vào việc tăng sản lượng lên mức tối đa từ diện tích đất trồng trọt có hạn của đất nước (vốn chỉ chiếm 19% tổng diện tích đất đai). Những giống lúa mới và những cây trồng khác cho sản lượng cao đã được đưa vào gieo trồng. Ngoài ra, công nghiệp phân bón và thuốc trừ sâu cũng được phát triển để cung cấp đầy đủ những sản phẩm thiết yếu này cho các chủ trang trại.

Sản xuất hoa quả, rau xanh, các cây trồng ngắn ngày có giá trị kinh tế cao và các sản phẩm chăn nuôi tăng nhanh. Sự phát triển nhà kính làm bằng nhựa vi-nyl đã góp phần quan trọng vào việc tăng khối lượng thu hoạch rau xanh cho đất nước.

Quá trình công nghiệp hóa đã làm giảm nhanh dân số nông nghiệp. Tỷ lệ dân nông thôn trong tổng dân số giảm mạnh từ 57% năm 1962 xuống dưới 9% vào cuối những năm 2000. Xu hướng này đã ảnh hưởng đến cơ cấu lao động của các ngành công nghiệp quốc gia. Để giải quyết vấn đề lao động trong ngành nông nghiệp đang giảm nhanh, Chính phủ Hàn Quốc đã có những nỗ lực lớn nhằm thúc đẩy cơ giới hóa nông nghiệp. Cơ giới hóa đã mang lại những thành tựu đáng kể trong việc trồng và thu hoạch lúa. Ngoài ra, những giống cây mới cho năng suất cao, có khả năng kháng sâu bọ và bệnh tật tốt hơn đang được phát triển.

Cỏ thể nói rằng những vấn đề đặt ra cần được giải quyết trong lĩnh vực phát triển nông nghiệp và nông thôn Hàn Quốc như: an ninh lương thực, sự chênh lệch về thu nhập giữa các hộ gia đình nông thôn và thành thị, tăng cường năng lực cạnh tranh nồng nghiệp, và sự phát triển nông thôn... chính là những mục tiêu chính sách chủ yếu đặt ra trong nông nghiệp Hàn Quốc trong suốt quãng thời gian hơn nửa thế kỷ qua kể từ khi nước Đại hàn dân quốc (Hàn Quốc) được thành lập đến nay. Tuy nhiên, tùy theo tình hình thực tiễn và sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn trong mỗi giai đoạn mà các chính sách nông nghiệp của Hàn Quốc được nhấn mạnh vào một hoặc một số nội dung nhất định.

2. Nội dung chủ yếu của chính sách nông nghiệp qua các giai đoạn

2.1. Cải tạo nông nghiệp và xây dựng nền tảng cơ sở của sản xuất nông nghiệp (1948 - 1970)

Nội dung chủ yếu của chính sách nông nghiệp của Hàn Quốc trong giai đoạn này là cải cách ruộng đất và xây dựng nền tảng cơ sở kinh tế - xã hội cho sự phát triển của nông nghiệp sau khi Chính phủ đầu tiên của Hàn Quốc được thành lập. Tuy nhiên, do sự bùng nổ của cuộc Chiến tranh Triều Tiên năm 1950, những bất ổn về xã hội tiếp tục kéo dài cho đến giữa những năm 1950. Cải cách ruộng đất được thực hiện từ 1950 đến 1957 đã thủ tiêu quan hệ địa chủ - tá điền về ruộng đất và thiết lập các nông trang độc lập. Nền kinh tế Hàn Quốc lúc này cơ bản là một nền kinh tế nông nghiệp tiền công nghiệp hoá. Vì vậy, nhu cầu tích luỹ và cung cấp vốn cho quá trình công nghiệp hoá là hết sức cấp thiết. Bởi vì nông nghiệp đã góp phần làm giảm tỉ lệ thất nghiệp tiềm tàng và vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Chính sách nông nghiệp đã tập trung vào việc giải quyết vấn đề thiếu lương thực. Một trong những biện pháp chính sách chủ đạo lúc này là thu mua lương thực, phân phối nguồn lương thực viện trợ của Mỹ theo Luật công 480 được ban hành năm 1956, và tăng sản lượng lương thực. Mặc dù viện trợ lương thực của Mỹ đã giúp giải quyết ngay vấn đề thiếu lương thực, song nó cũng làm giảm giá các sản phẩm nông nghiệp của Hàn Quốc ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của nông dân. Hơn nữa, kế hoạch tăng sản lượng lương thực của Chính phủ không đạt được kết quả như mong muốn do các phương tiện cần thiết để thực hiện như phát triển kỹ thuật và mở rộng quy mô nông trại chưa thực hiện được.

Đây cũng là giai đoạn thiết lập một cách vững chắc thể chế cho việc quản lý nông nghiệp. Các cơ quan như Cục Quản lý phát triển nông thôn, Văn phòng công tác hàng hải, và Cục kiểm lâm đã được thành lập. Hệ thống hợp tác xã nông nghiệp tổng hợp cũng được thành lập sau khi Luật Hợp tác xã nông nghiệp được ban hành năm 1961. Vấn đề cải thiện cơ cấu nông nghiệp cũng đã được đặt ra và Luật nông nghiệp cơ bản được ban hành năm 1967 nhằm khuyến khích các hộ gia đình nông dân tự lực sản xuất.

2. 2. Xây dựng nông thôn mới (1970 - 1995)

Giai đoạn này là giai đoạn đẩy mạnh quản lý nông nghiệp để tăng sản lượng, số lượng các hộ gia đình nông dân vốn tăng mạnh trong giai đoạn trước đã bắt đầu giảm đi kể từ năm 1968, và tổng diện tích đất nông nghiệp cũng bắt đầu giảm từ năm 1969. Với sự phát triển nhanh chóng của quá trình công nghiệp hoá, một số lượng lớn đất đai trong nông nghiệp chuyển thành các khu công nghiệp và tương tự như vậy một số lượng lớn lao động nông thôn đã di chuyển ra thành thị và các khu công nghiệp. Nhiệm vụ chủ yếu của quản lý nông nghiệp trong giai đoạn này là làm thế nào để có thể duy trì hệ thống nông trại độc lập trong quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá. Để thực hiện mục tiêu này, Luật ruộng đất đã được ban hành, nhưng không thực hiện được triệt để do phản ứng của dư luận, vấn đề thiếu lương thực hệ quả của quá trình công nghiệp hoá ngày càng trở nên nghiêm trọng, các mục tiêu của chính sách nông nghiệp của Chính phủ được hướng vào việc tăng sản xuất lương thực và hiện đại hoá quá trình sản xuất. Các biện pháp để thực hiện tăng sản xuất lương thực bao gồm: phát triển và phổ biến các kỹ thuật nông nghiệp mới, hướng dẫn kỹ thuật nông nghiệp cho nông dân, thành lập các nông trang, tái điều chỉnh đất canh tác, phát triển các nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, cải tiến hạt giống, và cơ khí hoá nông nghiệp. Các biện pháp chính sách bổ sung cho các biện pháp chính sách này là chính sách phát triển các làng cung cấp điện và mở rộng đường sá, chính sách thu nhập nông nghiệp được cụ thể hoá trong Dự án đặc biệt về tăng thu nhập của nông dân và ngư dân, và chính sách trợ giá bao gồm chính sách giá gạo cao và hệ thống chỉ số thu mua lúa mạch. Đặc biệt là một loại giống lúa gạo mới cho sản lượng cao Tongil Byeo đã được phát triển và đưa vào sử dụng từ năm 1971. Kết quả là sản lượng sản xuất lương thực đã tăng nhanh giúp cho Hàn Quốc có thể tự đảm bảo được về gạo từ năm 1977.

Phong trào nông thôn mới với tên gọi là “Saemaul Undong” được bắt đầu vào năm 1970 đã tạo ra sự bùng nổ phát triển nông thôn. Trong giai đoạn này, thu nhập của hộ gia đình nông dân đã tăng đáng kể và kinh tế nông trại trở nên ổn định hơn so với các giai đoạn trước đó nhờ tăng sản xuất và trợ giá gạo. Nhờ có phong trào nông thôn mới mà môi trường sống hàng ngày ở các vùng nông thôn và ý thức kinh tế của nông dân cũng thay đổi mạnh mẽ. Tuy nhiên, tình trạng cho thuê ruộng đất bắt đầu tăng mà không có sự cải thiện về cơ cấu nông nghiệp vốn dựa trên hệ thống các nông trại độc lập quy mô nhỏ. Những mâu thuẫn trong quản lý nông nghiệp đã nảy sinh. Điều này là do nông nghiệp Hàn Quốc phải trải qua nhiều mâu thuẫn lợi ích trong quá trình đi vào kỷ nguyên nông nghiệp thương mại sau khi đạt được sự tự cấp về lương thực. Định hướng chính sách kinh tế của Hàn Quốc đã được thay đổi từ tăng trưởng cao sang tăng trưởng ổn định và từ chính sách bảo hộ sang chính sách mở cửa thị trường. Đối với nông nghiệp cũng vậy.

Định hướng chính sách nông nghiệp đã được thay đổi từ tăng thu nhập nông nghiệp thông qua việc tăng sản xuất các loại hạt ngũ cốc và trợ giá sang chính sách tăng thu nhập của hộ gia đình nông dân thông qua các nguồn thu phi nông nghiệp, tăng vụ, và tăng thu nhập từ chăn nuôi, hoa quả và rau xanh. Kết quả là công nghiệp nông thôn đã bắt đầu được đẩy mạnh trên cơ sở hình thành các tổ hợp nông - công nghiệp. Các ngành chăn nuôi và trồng rau thơm đã được mở rộng một cách nhanh chóng. Tương tự như vậy, các biện pháp chính sách của Chính phủ Hàn Quốc nhằm tự do hoá nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp có hiệu lực từ năm 1978. Tuy nhiên, không may là do thời tiết lạnh đột ngột xẩy ra vào năm 1980 đã làm giảm 36% tổng sản lượng gạo. Năm tiếp theo Hàn Quốc đã phải nhập khẩu gạo. Hơn nữa, nhập khẩu thịt bò tăng đã gây ra một cuộc khủng hoảng về giá năm 1984, và điều này đã xẩy ra khi các hộ gia đình nông dân được Chính phủ khuyến khích tăng sản lượng gia súc và tăng vụ. Giá cả các loại rau thơm và sản phẩm chăn nuôi biến động một cách thất thường. Tỉ lệ tự cấp lương thực đã bị giảm, trong khi đó các sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu tăng mạnh. Điều này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế hộ gia đình và nợ nần của các gia đình tăng cao.

Vì vậy, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện các biện pháp phục hồi kinh tế nông nghiệp và ngư nghiệp. Tháng 3/1986, lần đầu tiên trong lịch sử quản lý nông nghiệp của Hàn Quốc “Giải pháp toàn diện cho các làng nông nghiệp và ngư nghiệp”đã được ban hành. Nội dung chủ yếu của giải pháp toàn diện này là mở rộng các tổ hợp công - nông nghiệp nhằm tăng thu nhập phi nông nghiệp cho nông dân, tăng trợ cấp thuế cho các nhà máy ở các vùng nông thôn, tăng cường cung cấp các nguồn vốn nông nghiệp nhằm tăng thu nhập nông nghiệp, và tăng cường các dự án dành cho nông dân và ngư dân.

Những năm tiếp theo có thể coi là bước quá độ trong chính sách quản lý nông nghiệp của Hàn Quốc tới giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng hơn về nông nghiệp. Năm 1986 Vòng đàm phán thương mại đa phương Urugoay về tự do hoá thương mại toàn cầu bắt đầu được tổ chức. Từ 1986 đến 1989, cán cân thanh toán quốc tế của Hàn Quốc đạt thặng dư. Chính vì vậy Hàn Quốc không còn được hưởng chế độ ưu đãi về thương mại dành cho các nước có thâm hụt cán cân thanh toán theo các điều khoản của Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT). Đồng thời, sức ép đối với việc mở cửa thị trường các sản phẩm nông nghiệp ngày càng trở nên gay gắt. Theo những kết luận của Vòng đàm phán Urugoay kết thúc vào năm 1993, nông nghiệp Hàn Quốc phải thay đổi để chuẩn bị cho một thị trường nông nghiệp mở cửa. Điều này đã đặt ra một nhiệm vụ cấp bách cho chính sách nông nghiệp là cải thiện cơ cấu ngành nông nghiệp sao cho có thể nâng cao được năng lực cạnh tranh trước sức ép mở cửa thị trường nông sản trong nước. Trong những năm từ 1989 đến 1994 Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra 3 nhóm giải pháp toàn diện. Đó là:

(1) Giải pháp toàn diện phát triển các làng nông nghiệp và ngư nghiệpđược thực hiện từ tháng 4/1989. Nội dung chính của giải pháp này là thành lập Quỹ quản lý ruộng đất với chức năng cấp vốn cho những nông dân có nhu cầu mua ruộng đất nhằm thúc đẩy quá trình cải thiện cơ cấu nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Ngoài ra, Chính phủ cũng chủ trương thành lập hệ thống tập đoàn nông nghiệp; phát triển các nguồn thu nhập phi nông nghiệp; lập kế hoạch phát triển các vùng dân cư; khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp và ngư nghiệp và công nghiệp xuất khẩu.

(2) Giải pháp cải thiện cơ cấu các làng nông nghiệp và ngư nghiệpđược thực hiện từ năm 1991. Chính phủ dự định đầu tư 42 tỷ won để cải thiện cơ cấu các làng nông nghiệp và ngư nghiệp trong thời gian 10 năm (1992 - 2001).

(3) Cải cách chính sách nông nghiệp và giải pháp phát triển các làng nông nghiệp và ngư nghiệpđược thực hiện từ năm 1994 là sự tiếp tục của các giải pháp toàn diện được thực hiện từ năm 1989. Dự án đầu tư 42 tỷ won dự định kết thúc vào năm 2001 sẽ được kết thúc sớm hơn vào năm 1998 và mở rộng các nguồn vốn đầu tư cho nông dân và ngư dân bằng cách dành một khoản thu thuế đặc biệt với tổng số tiền là 15 tỷ won. Tháng 11 năm 1997, Hàn Quốc phải đương đầu với cuộc khủng hoảng tài chính chỉ một năm sau khi nước này trở thành thành viên của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Nền kinh tế Hàn Quốc lâm vào tình cảnh hết sức khó khăn. Chính phủ Hàn Quốc đã phải viện đến sự giúp đỡ của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) để khắc phục khủng hoảng. IMF đã cung cấp các nguồn tài chính cho Hàn Quốc với một số điều kiện ràng buộc trong đó có vấn đề phải đẩy mạnh cải cách kinh tế và xã hội. Chính phủ Hàn Quốc đã chấp thuận và thực hiện một cuộc tái cơ cấu một cách mạnh mẽ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngành nông nghiệp cũng nằm trong số những lĩnh vực quan trọng được tái cơ cấu trong thời gian đó.

2.3. Hội nhập quốc tế về nông nghiệp (từ 1995 đến nay)

Giai đoạn này có thể coi là giai đoạn cải cách chính sách nông nghiệp. Sau khi Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được thành lập, nền nông nghiệp Hàn Quốc vốn đã phải đương đầu với sức ép mở cửa từ những năm trước đó lại càng gặp khó khăn hơn khi phải đáp ứng những điều kiện khắt khe của WTO về tự do hoá các sản phẩm nông nghiệp. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, giá vật tư nông nghiệp tăng nhanh từ đầu năm 1998 làm cho sản xuất nông nghiệp càng bị thua lỗ, nhiều nông trại bị đặt trước tình trạng phá sản do không hoàn trả được các khoản tín dụng đã vay. Trước tình hình đó, Chính phủ Hàn Quốc đã đặt ưu tiên chính sách cao nhất vào việc ổn định kinh tế nông hộ nhằm phục hồi kinh tế nông thôn. Để thực hiện điều này, Chính phủ đã chủ trương giảm nợ hoặc hoãn nợ cho các hộ gia đình nông dân và giảm hoặc miễn lãi cho vay; đồng thời ban hành “Luật đặc biệt về giảm nợ cho nông dân và ngư dân". Định hướng cơ bản của chính sách nông nghiệp đã có sự thay đổi bước ngoặt từ mở rộng quy mô nông trại trước đó sang khuyến khích phát triển nông nghiệp thân thiện môi trường trên cơ sở các nông trại quy mô vừa và nhỏ và nâng cao chất lượng cạnh tranh.

Cụ thể là, Chính phủ đã thực hiện một cách có hiệu lực các biện pháp cải cách phân phối sản phẩm nông nghiệp, vấn đề này bao gồm việc mở rộng các giao dịch trực tiếp, đa dạng hoá các phương pháp giao dịch ở thị trường bán buôn công cộng, và thực hiện hệ thống đặt hàng phân phối. Năm 1998, Chính phủ đã ban hành “Luật cơ bản về nông nghiệp và nông trại"và tiến hành cải cách các tổ chức nông nghiệp có liên quan. Năm 2000, Chính phủ đã hợp nhất Liên hiệp các HTX nông nghiệp quốc gia, Liên hiệp các HTX chăn nuôi quốc gia, Liên hiệp các HTX sâm Hàn Quốc, Tập đoàn phát triển nông thôn - một cơ quan quản lý nước, và Hiệp hội cải tiến đất trồng thành một tổ chức duy nhất nhằm thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa những người nông dân, người tiêu dùng và Chính phủ để nông dân và những người tiêu dùng có thể tham gia vào quá trình hoạch định chính sách. Đây cũng đữợc coi là một sự thay đổi quan trọng.

Kể từ năm 2000, những nỗ lực của Hàn Quốc trong việc đàm phán và ký kết các Hiệp định thương mại tự do song phương (FTA) đã bắt đầu tạo ra những bước tiến trong trào lưu chung của thế giới hướng tới tự do hoá thương mại. Thậm chí dù Hàn Quốc đã từng rất bảo thủ đối với FTA, sự kết thúc thành công của các cuộc đàm phán FTA với Chi Lê vào năm 2002 đã tạo ra một bước ngoặt mới trong chính sách FTA của nước này. Tiếp theo đó, Hàn Quốc đã ký các hiệp định thương mại hàng hoá với Singapore năm 2004, Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (EFTA) năm 2005 và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 2006. Năm 2007, Hàn Quốc đã ký các FTA với Mỹ và hiện nay đang đàm phán các FTA với Nhật Bản, Mehicô, EU, Ấn Độ, và Canada.

Để đáp ứng những đòi hỏi của thị trường trong bối cảnh mới nói trên, cơ sở của chính sách nông nghiệp của Hàn Quốc đã thay đổi theo hướng lấy người tiêu dùng làm tiêu điểm. Chính phủ Hàn Quốc đã chủ trương tăng cường mức độ tin tưởng và thoả mãn của người tiêu dùng bằng việc xây dựng cơ sở sản xuất và phân phối 40 sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao của Hàn Quốc, và đẩy mạnh việc kiểm tra an toàn lương thực thực phẩm, dán tem nguồn gốc của sản phẩm, và hệ thống đảm bảo chất lượng sản phẩm nông nghiệp.

Một thay đổi lớn khác là đẩy mạnh chính sách đối với thu nhập của nông dân và các làng nông nghiệp. Chính phủ đã sử dụng hệ thống đền bù trực tiếp cho các diện tích trồng lúa nước từ năm 2000 sau khi tham khảo kinh nghiệm áp dụng từ các nước tiên tiến. Năm 2002, Chính phủ cũng đã sử dụng hệ thống đền bù trực tiếp đối với thu nhập từ việc canh tác lúa nước. Hơn nữa, Chính phủ đã ban hành “Luật đặc biệt về cải thiện chất lượng cuộc sống” vào năm 2005 nhằm cải thiện phúc lợi ở các vùng nông thôn bằng các chính sách thích hợp.

Nhằm tái tạo sức sống ở các vùng nông thôn kinh tế trì trệ, Chính phủ đã sựa đổi một số điều khoản chính sách và cải tiến các hệ thống có liên quan nhằm tạo điều kiện cho nguồn vốn từ thành thị có thể đổ về các vùng nông thôn, khuyến khích những trao đổi giữa thành thị và nông thôn và đẩy mạnh phát triển du lịch nông thôn.

Tóm lại, sự phát triển nông nghiệp của Hàn Quốc từ năm 1948 đến nay đã trải qua 3 giai đoạn chủ yếu. Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, nông nghiệp Hàn Quốc phải đảm bảo cung cấp đủ lương thực, thực phẩm và nguồn lao động cần thiết cho sự phát triển của các ngành công nghiệp. Vấn đề tự cung tự cấp, đặc biệt là đối với những sản phẩm nông nghiệp thiết yếu như lúa gạo, thịt, sữa... là một yêu cầu quan trọng hàng đầu đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách của Hàn Quốc. Tuy nhiên, sự phát triển quá nhanh của các ngành công nghiệp trong thời kỳ đầu đã làm cho khoảng cách phát triển giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn. Nông nghiệp trở nên ngày càng lạc hậu so với công nghiệp, đất đai nông nghiệp được sử dụng vào các mục đích phi nông nghiệp ngày càng nhiều trong khi nguồn tài nguyên không thể tái tạo này của Hàn Quốc cũng hết sức khan hiếm. Thêm vào đó, những yêu cầu của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi nông nghiệp phải mở cửa hơn nữa trước sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt. Tất cả những vấn đề này đòi hỏi chính sách nông nghiệp của Hàn Quốc cần được điều chỉnh theo hướng chú trọng hơn đến sự phát triển bền vững, duy trì và bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là các nguồn tài nguyên nông nghiệp như đất và nước, hiện đại hóa nông thôn và tăng cường năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm nông nghiệp.

Nhìn chung, các chính sách trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn của Hàn Quốc đã thu được những kết quả khả quan, đem lại một diện mạo mới cho sự phát triển hiện đại của nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là trong những năm gần đây. Tuy nhiên, hiện nay nền nông nghiệp Hàn Quốc nói riêng và kinh tế Hàn Quốc nói chung vẫn còn tiếp tục phải đối mặt với những thách thức không nhỏ. Đó là việc mở cửa các thị trường sản phẩm nông nghiệp; khoảng cách về thu nhập giữa nông thôn và thành thị tuy đã được thu hẹp phần nào nhờ các chính sách được thực hiện trong thời - gian qua song vẫn còn khá lớn; những thay đổi về nhu cầu tiêu dùng đối với sản phẩm nông nghiệp, theo đó sở thích của người tiêu dụng đối với các sản phẩm nông nghiệp thân thiện môi trường ngày càng tăng lên; trợ cấp nông nghiệp cao làm cho có sự chênh lệch lớn về giá cả sản phẩm nông nghiệp giữa giá trong nước và giá quốc tế hạn chế cạnh tranh; và vấn đề sử dụng phân hoá học trong nông nghiệp đang đặt ra những vấn đề lớn đối với môi trường và đất nông nghiệp. Đây là những vấn đề mà Chính phủ Hàn Quốc đang phải đối mặt và cần có những biện pháp chính sách hữu hiệu hơn để giải quyết trong thời gian tới.

1. Ban, Sung-Hwan, The Growth of Agricultural Output and Productivity in Korea, 1918 - 1978,Journal of Rural Development 4:1 (June 1981): 1-18.

2. Bank of Korea (2006a), Economic Statistics Yearbook 2006, Seoul, Korea.

3. Kim, Chang-Gil (2007a), Policies on environmentally friendly agricultural practices in developed countries and their policy implications for Korea,Korea Rural Economic Institute, Seoul, Korea.

4. Kim, Chang-Gil (2007b), Strategy for environmentally friendly agriculture in Korea,Korea Rural Economic Institute, Seoul, Korea.

5. KREI (1999), Agriculture in Korea,Korea Rural Economic Institute, Seoul, Korea.

6. KREI (2006), Outlook of Koreanagriculture in 2006,Korea Rural Economic Institute, Seoul, Korea.

7. MAF (1997), White paper on agricultural policy reforms in Korea,Seoul, Korea.

8. MAF (2005a), Manual on the implementation of agricultural projects,Seoul, Korea.

9. MAF (2006a), Statistical Yearbook of Agriculture and Forestry,Seoul, Korea.

10. MAF (2006b), Major statistics of Korean Agriculture and Forestry,Seoul, Korea.

11. OECD (1998), Review of Agricultural Policies in Korea,Paris.

12. OECD (2006c), Agricultural policies in OECD countries: At a glance 2006,Paris.

Sự phát triển của Công nghệ thông tin (CNTT) hay IT (Information Technology) đóng vai trò quan trọng trong đời sống hiện đại, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội và thay đổi cách con người làm việc, học tập và giải trí. Tuy nhiên, để hiểu rõ về CNTT hơn, chúng ta hãy nhìn lại quá trình phát triển của nó qua từng thời kỳ nhé.

Bài viết này sẽ tập trung vào giai đoạn phát triển công nghệ thông tin từ năm 1940 - 1970, kế thừa và phát triển lên từ những mầm mống sơ khai về CNTT như máy phân tích, máy dệt tự động dùng thẻ đục lỗ đã được chế tạo ra trước đó.

Hình 1. Sự phát triển của Công nghệ thông tin từ 1940 -1970

1. ENIAC - Người khổng lồ mở đầu kỷ nguyên máy tính

ENIAC, viết tắt của cụm từ "Electronic Numerical Integrator and Computer" (tạm dịch: Máy tính và Tích hợp Số điện tử), chính là máy tính điện tử đầu tiên trên thế giới. Sự ra đời của nó vào năm 1945 đã tạo nên một cuộc cách mạng trong lĩnh vực tính toán và mở ra kỷ nguyên máy tính đầy hứa hẹn.

ENIAC được phát triển trong thời kỳ Thế chiến thứ hai, với mục đích ban đầu là tính toán bảng bắn cho pháo binh của quân đội Hoa Kỳ. Cha đẻ của sáng chế này là hai nhà khoa học tài năng, John Mauchly và J. Presper Eckert, là những người đã thiết kế và chế tạo ra ENIAC tại trường Đại học Pennsylvania.

Với kích thước thân máy khổng lồ, ENIAC là một cỗ máy đồ sộ, chiếm diện tích lên đến 167 mét vuông và nặng khoảng 27 tấn. Tuy nhiên, sức mạnh tính toán của ENIAC vẫn còn hạn chế so với máy tính hiện đại dù kích thước của nó lớn như vậy. Nhưng dù sao ENIAC cũng là một đột phá vào thời điểm đó khi nó nhanh hơn gấp 1000 lần so với các máy tính cơ học trước đây.

Hình 2. Máy tính ENIAC khổng lồ

Để chế tạo ra ENIAC, hai nhà khoa học phải sử dụng khoảng 17.468 bóng đèn điện tử chân không, cùng với các linh kiện điện tử khác như điện trở, tụ điện và rơ le. Cùng với đó là, việc lập trình ENIAC rất khó khăn và tốn thời gian vô cùng. Các lập trình viên phải sử dụng dây nối và công tắc để thiết lập các mạch điện, tương tự như cách vận hành của tổng đài điện thoại.

ENIAC là tiền đề cho sự phát triển của các máy tính điện tử khác, góp phần to lớn vào sự tiến bộ của công nghệ thông tin. Nó được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, từ tính toán quỹ đạo tên lửa đến dự báo thời tiết và nghiên cứu năng lượng nguyên tử. ENIAC là biểu tượng của sự đột phát, là minh chứng cho sức sáng tạo và khả năng đột phá của con người trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.

Ngày nay, ENIAC được trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Lịch sử Hoa Kỳ, như một di sản công nghệ quý giá và là lời nhắc nhở về những bước tiến vĩ đại của nhân loại trong hành trình chinh phục thế giới kỹ thuật số.

2. Bóng bán dẫn - Bước ngoặt của lịch sử công nghệ (1947)

Bóng bán dẫn là một thiết bị điện tử đóng vai trò nền tảng trong hầu hết các thiết bị điện tử hiện đại. Phát minh ra bóng bán dẫn vào năm 1947 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử công nghệ, mở ra kỷ nguyên thu nhỏ, tăng hiệu suất và giảm chi phí cho các thiết bị điện tử. Bài viết này sẽ đi sâu vào hành trình phát triển của bóng bán dẫn, từ những ý tưởng khởi đầu đến những bước đột phá và sự bùng nổ trong ứng dụng.

Hạt giống cho sự ra đời của bóng bán dẫn được gieo mầm từ những phát minh trước đó. Năm 1874, Heinrich Rudolf Hertz khám phá ra hiệu ứng quang điện, đặt nền tảng cho sự hiểu biết về mối quan hệ giữa ánh sáng và điện. Năm 1906, Lee De Forest phát minh ra ống ba cực, tiền thân của bóng bán dẫn, mở ra khả năng khuếch đại tín hiệu điện tử. Hơn 2 thập kỷ sau, vào năm 1927, Julius Edgar Lilienfeld đề xuất ý tưởng về transistor hiệu ứng trường, tuy nhiên không thể chế tạo thành công do những hạn chế về kỹ thuật thời bấy giờ.

Hình 3. Bóng bán dẫn - Bước ngoặt của lịch sử công nghệ

Năm 1947, tại phòng thí nghiệm Bell Labs (Mỹ), William Shockley, John Bardeen và Walter Brattain đã đạt được thành công vang dội khi chế tạo thành công transistor tiếp điểm - sự kiện đánh dấu sự ra đời của bóng bán dẫn hiện đại. Phát minh này dựa trên nguyên tắc sử dụng hai tiếp điểm kim loại trên một miếng bán dẫn để điều khiển dòng điện, mang lại kích thước nhỏ gọn và hiệu suất cao hơn so với các ống chân không cồng kềnh trước đây.

Chỉ một năm sau, Shockley tiếp tục phát triển transistor lớp chuyển tiếp, khắc phục nhược điểm của transistor tiếp điểm và đặt nền tảng cho sự phát triển mạnh mẽ của bóng bán dẫn trong những thập kỷ tiếp theo.

Sự ra đời của bóng bán dẫn là một trong những phát minh quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại, đóng vai trò nền tảng cho sự phát triển của các thiết bị điện tử hiện đại, từ máy tính, điện thoại thông minh đến thiết bị y tế, xe hơi, v.v. Nhờ những ưu điểm vượt trội về kích thước, hiệu suất và chi phí, bóng bán dẫn đã và đang tiếp tục thúc đẩy sự đổi mới trong mọi lĩnh vực của đời sống, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống con người.

3. FORTRAN - Ngôn ngữ lập trình tiên phong (1957)

Năm 1957, John Backus cùng nhóm nghiên cứu của ông tại IBM đã cho ra đời FORTRAN (viết tắt của "Formula Translation" - dịch thuật công thức), đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập trình.

Hình 4. Ngôn ngữ lập trình FORTRAN

Trước FORTRAN, việc lập trình máy tính chủ yếu sử dụng ngôn ngữ máy phức tạp, gây khó khăn cho các nhà khoa học và kỹ sư. Việc FORTRAN ra đời nhằm đơn giản hóa quá trình lập trình, cho phép họ tập trung vào giải quyết vấn đề thay vì loay hoay với mã máy.

FORTRAN được phát triển với mục đích ban đầu là sử dụng cho máy tính IBM 704, với mục tiêu tăng hiệu quả lập trình và khai thác tối đa sức mạnh của máy tính này. Ngôn ngữ lập trình FORTRAN sử dụng cú pháp gần gũi với ngôn ngữ toán học, giúp các nhà khoa học dễ dàng viết và hiểu code hơn.

FORTRAN được thiết kế để xử lý các phép tính số học phức tạp, lý tưởng cho các ứng dụng khoa học và kỹ thuật. Để có thể vận hàng với hiệu suất cao, FORTRAN tạo ra mã máy hiệu quả, cho phép chương trình chạy nhanh và tiết kiệm tài nguyên máy tính.

Sau khi ra đời, FORTRAN nhanh chóng trở thành ngôn ngữ lập trình được ưa chuộng trong cộng đồng khoa học và kỹ thuật, được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như vật lý, hóa học, khí tượng học và kỹ thuật hàng không. Đồng thời ngôn ngữ lập trình này đã đặt nền móng cho sự phát triển của nhiều ngôn ngữ lập trình cấp cao khác, như ALGOL, COBOL và BASIC.

4. Sự ra đời và phát triển của COBOL, Pascal và Lisp (1950s)

Thập niên 1950 là giai đoạn bùng nổ của ngành công nghệ thông tin với sự xuất hiện của nhiều ngôn ngữ lập trình mới, chúng là những ngôn ngữ lập trình tiên phong đã đóng vai trò nền tảng quan trọng trong việc định hình ngành công nghệ thông tin ngày nay.

Hình 5. Ngôn ngữ lập trình COBOL

Hình 6. Ngôn ngữ lập trình PASCAL

Hình 7. Ngôn ngữ lập trình LISP

COBOL, Pascal và Lisp là những ngôn ngữ lập trình tiên phong đã đóng vai trò nền tảng quan trọng trong việc định hình ngành công nghệ thông tin ngày nay. Chúng là những viên gạch đầu tiên để “làm móng” của các ngôn ngữ lập trình hiện đại, truyền cảm hứng cho sự phát triển của nhiều ngôn ngữ lập trình phổ biến hiện nay như C, Java, Python, v.v. Chúng đã mở rộng khả năng lập trình, nâng cao tính an toàn và hiệu quả, đồng thời đặt nền tảng cho sự phát triển của các ngôn ngữ lập trình hiện đại.

Xem thêm: 5 Giai Đoạn Phát Triển Của Công Nghệ Thông Tin: Mầm Mống Sơ Khai (Phần 1)

5. Algol 60 và Simula - Đột phá ngôn ngữ lập trình (1960s)

Sự ra đời và phát triển của Algol 60 và Simula là những bước tiến đột phá trong lĩnh vực lập trình, đặt nền móng cho các khái niệm lập trình cấu trúc và lập trình hướng đối tượng, đóng vai trò then chốt trong việc định hình ngành công nghệ thông tin hiện đại.

Thập niên 1960 đánh dấu sự ra đời của hai ngôn ngữ lập trình mang tính đột phá:

Được phát triển vào năm 1960 bởi một nhóm các nhà khoa học máy tính quốc tế, Algol 60 là ngôn ngữ lập trình bậc cao đầu tiên giới thiệu các khái niệm lập trình cấu trúc như khối lệnh, phạm vi biến và đệ quy. Algol 60 đề cao tính logic, rõ ràng và dễ đọc, giúp lập trình viên viết ra code dễ hiểu, dễ bảo trì và ít lỗi.

Nhờ những ưu điểm này, Algol 60 đã trở thành ngôn ngữ học thuật tiêu chuẩn trong nhiều năm và ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của các ngôn ngữ lập trình sau này như C, Pascal và Java.

Hình 8. Một trong những bảng quy định của ngôn ngữ lập trình Algol 60

Ra đời vào năm 1967, Simula là ngôn ngữ lập trình đầu tiên được thiết kế đặc biệt để lập trình với khái niệm về đối tượng. Nó giới thiệu các khái niệm then chốt của lập trình hướng đối tượng như lớp, đối tượng, phương thức và kế thừa.

Simula cho phép lập trình viên mô phỏng các hệ thống thực tế bằng cách chia nhỏ chúng thành các đối tượng tương tác với nhau, đặt nền tảng cho sự phát triển của các ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng phổ biến hiện nay như C++, Java và Python.

Algol 60 và Simula đã đóng vai trò tiên phong trong việc định hình ngành công nghệ thông tin với những đóng góp to lớn, chúng đã giới thiệu các khái niệm lập trình quan trọng giúp lập trình viên viết ra code logic, rõ ràng, dễ hiểu và dễ bảo trì, đồng thời mở ra khả năng mô phỏng các hệ thống phức tạp một cách hiệu quả.

Hình 9. Cha đẻ của ngôn ngữ lập trình SIMULA

Algol 60 và Simula là bước đột phá về ngôn ngữ lập trình để thúc đẩy sự phát triển của các ngôn ngữ lập trình hiện đại. Chúng ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của nhiều ngôn ngữ lập trình phổ biến hiện nay, góp phần định hình cách thức lập trình và xây dựng phần mềm trong thời đại ngày nay.

Sự ra đời và phát triển của Algol 60 và Simula là những bước tiến đột phá trong lĩnh vực lập trình, đặt nền móng cho các khái niệm lập trình cấu trúc và lập trình hướng đối tượng, đóng vai trò then chốt trong việc định hình ngành công nghệ thông tin hiện đại. Nhờ những đóng góp to lớn này, Algol 60 và Simula sẽ luôn được ghi nhớ như những cột mốc quan trọng trong lịch sử phát triển phần mềm.

6. Sự bùng nổ của kỷ nguyên CNTT với Máy tính mainframe

Máy tính mainframe là những gã khổng lồ tiên phong trong ngành công nghệ thông tin, góp phần đặt nền móng cho sự phát triển của các thiết bị điện tử thông minh và ứng dụng phần mềm đa dạng ngày nay. Mặc dù vai trò của mainframe trong thời đại máy tính cá nhân và đám mây đang dần thay đổi, nhưng những đóng góp to lớn của chúng trong lịch sử sẽ luôn được ghi nhớ.

Vào năm 1951, Máy tính UNIVAC I (Universal Automatic Computer I) được giới thiệu, là máy tính thương mại đầu tiên trên thế giới. UNIVAC I nổi tiếng với khả năng tính toán chính xác và tốc độ xử lý nhanh chóng, được sử dụng cho nhiều ứng dụng quan trọng như dự báo thời tiết, tính toán quỹ đạo tên lửa và kiểm tra bầu cử.

Ngay trong thập niên 1950 và 1960, các nhà sản xuất máy tính lớn như IBM, UNIVAC, NCR và CDC đã liên tục cải tiến công nghệ của họ, chế tạo ra nhiều thế hệ máy tính mainframe mới với kích thước nhỏ gọn hơn, hiệu suất cao hơn và khả năng lưu trữ dữ liệu lớn hơn so với ENIAC và UNIVAC I khởi nguồn.

Những năm kế tiếp của thập niên 1970, sự ra đời của mạch tích hợp (IC) đã góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của máy tính mainframe. Kích thước máy được thu nhỏ đi rất nhiều, hiệu suất vận hàng cũng được tăng cao và giá thành giảm xuống chỉ còn rất thấp. Điều này giúp máy tính mainframe trở nên phổ biến hơn nhiều trong các doanh nghiệp và tổ chức đại trà.

Máy tính mainframe là bước đột phát, mở ra một kỷ nguyên bùng nổ của ngành Công nghệ thông tin toàn cầu, đóng vai trò tiên phong trong việc đặt nền móng cho ngành công nghệ thông tin với những đóng góp to lớn. Với khả năng xử lý lượng dữ liệu khổng lồ một cách nhanh chóng và chính xác, chúng đáp ứng được các nhu cầu phức tạp của người dùng thời điểm đó. Ngoài ra, các loại máy tính mainframe là nền móng thử nghiệm và phát triển nhiều công nghệ tiên tiến như hệ điều hành, hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu, mạng máy tính và bảo mật thông tin.

Xem thêm: 5 Giai Đoạn Phát Triển Của Công Nghệ Thông Tin: Sự Bùng Nổ (Phần 3)

Giai đoạn những năm 1940 - 1970 là giai đoạn nảy mầm cho sự phát triển của CNTT với những phát minh quan trọng như máy tính ENIAC, bóng bán dẫn hay các ngôn ngữ lập trình, và sau cùng là sự đột phá công nghệ của các thế hệ máy tính mainframe. Những phát minh này đã đặt nền tảng cho sự ra đời của máy tính điện tử và hệ thống thông tin hiện đại, góp phần thúc đẩy sự phát triển của CNTT trong những thập kỷ tiếp theo.

Follow HR1Tech để đọc tiếp những phần khác của series công nghệ thú vị này nhé.

Sự phát triển của Công nghệ thông tin (CNTT) hay IT (Information Technology) đóng vai trò quan trọng trong đời sống hiện đại, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội và thay đổi cách con người làm việc, học tập và giải trí. Tuy nhiên, để hiểu rõ về CNTT hơn, chúng ta hãy nhìn lại quá trình phát triển của nó qua từng thời kỳ nhé.

Bài viết này sẽ tập trung vào giai đoạn bùng nổ của công nghệ thông tin từ năm 1970 - 1990, là giai đoạn ra đời và nâng cấp liên tục về phần cứng cũng như phần mềm của máy tính cá nhân và là thời điểm ra đời của một trong những phát minh vĩ đại nhất lịch sử loài người - mạng Internet.

Xem thêm: 5 Giai Đoạn Phát Triển Của Công Nghệ Thông Tin: Mầm Mống Sơ Khai (Phần 1)

Hình 1. Sự phát triển của Công nghệ thông tin từ 1970 - 1990

Trong khoảng thời gian này xuất hiện rất nhiều nhà khoa học máy tính sẵn sàng dành cả đời để tạo ra những phát minh mang tính cách mạng, không hề nói quá khi cho rằng họ đã cùng nhau đưa nền công nghệ thông tin của con người tiến lên thêm một bậc. Đây là 2 thập kỷ mà ngành Công nghệ Thông tin đã “tiến hóa” liên tục, trực tiếp làm đẩy nhanh sự hiện đại hóa loài người.

Do trong giai đoạn này, số lượng sáng chế và cải tiến sáng chế của ngành Công nghệ Thông tin có vô cùng nhiều nên HR1Tech sẽ chỉ lọc ra những dấu mốc có sức ảnh hưởng lớn nhất để cung cấp thông tin cho các bạn đọc. Những giai đoạn Sự Bùng Nổ sẽ được chia làm 2 giai đoạn nhỏ hơn, từ 1970 - 1979 và từ 1980 - 1990.

Đầu tiên là giai đoạn nhỏ thứ nhất, từ năm 1970 - 1979, một thập kỉ với những phát minh mang sứ mệnh khởi nguồn của bước tiến vĩ đại, thay đổi lịch sử loài người.

Xem thêm: 5 Giai Đoạn Phát Triển Của Công Nghệ Thông Tin: Sự Nảy Mầm (Phần 2)

Giai đoạn từ 1980 - 1990 là giai đoạn các kỹ sư công nghệ thông tin liên tục nâng cấp, cải tiến, tối ưu hóa các phát minh ở thập kỉ trước đồng thời phát minh thêm những công nghệ khác, một trong số đó chính là chiếc máy tính xách tay (laptop) đầu tiên của nhân loại.

Trong lịch sử phát triển của Công nghệ Thông tin, có thể nói những năm từ 1970 - 1990 là hai thập kỉ có nhiều phát minh mang tính cách mạng nhất, ảnh hưởng lớn nhất tới sự phát triển của loài người. Trong vòng 20 năm này, có hàng chục phát kiến làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống con người, giống như chúng ta được “tiến hóa” lên một tầng cao mới.

Xem thêm: 5 Giai Đoạn Phát Triển Của Công Nghệ Thông Tin: Bước Ngoặt (Phần 4)

Follow HR1Tech để đọc tiếp những phần khác của series công nghệ thú vị này nhé.

Tìm việc và tuyển dụng ngành đa ngành. Khám phá thêm tại: www.hr1jobs.com